22/4/20

Bệnh Viêm họng LUDWIG (Angine de Ludiwg)

Bệnh Viêm họng LUDWIG (Angine de Ludiwg)


Người ta quen gọi là viêm họng Ludwig nhưng thật ra không phải Ludwig là người đã mô tả đầu tiên. Chính Gensoul đã phát hiện bệnh này trước. Hơn nưa đây không phải là viêm họng mà là một bệnh viêm hoại thư toả lan của mô sàn miệng.

Nguuyên nhân

Người ta thường thấy bệnh này ở người trẻ, nhất là phụ nữ. Nguyên nhân thường gặp là ổ viêm ở răng, nhất là răng khôn hàm dưới, hoặc nhổ răng. Những nguyên nhân khác hiếm gặp hơn là gãy xương hàm, rách niêm mạc miệng, thương tổn ở lưỡi ở miệng…

Một apxe ở vùng tuyến dưới hàm hoặc dưới lưỡi cũng cón hững thể biến thành viêm hoại thư toả lan của mô sàn miệng.

Về mặt vi khuẩn, thường có sự phối hợp nhiều loại nhất là giữa streptococus tan huyết với vi khuẩn yếm khí (clostridium perfringens, clostridium fusiformis…) gây ra hoại thư sinh, hơi và nhiễm độc toàn thân.
 

Viêm họng LUDWIG


Triệu chứng


1. Triệu chứng toàn thân: chiếm hàng đầu và nổi bật

Toàn trạng suy sụp nhanh trong vòng một vài ngày hoặc có khi nhanh hơn. Bệnh nhân nhợt nhạt, da mặt hơi vàng, môi xám, mệt lử, tiếp xúc chậm chạp. Bệnh nhân kêu ớn lạnh, đòi đắp chăn, đắp mền, ít khi có cơn run dự dội như trong nhiễm trùng huyết.

Nhiệt độ không cao lắm, thậm chí thấp hơn bình thường.

Mạch nhanh, yếu, thỉnh thoảng không đều. Dấu hiệu này quan trọng vì nói lên tình trạng nhiễm độc toàn thân

Khó thở cũng là một triệu chứng quan trọng sau mạch nhanh. Khó thở do nhiễm độc (nhanh, nóng): đôi khi có kèm theo cả khó thở đường hô hấp trên (khó thở thanh quản) do phù nề lưỡi hoặc thanh quản

Nước tiểu ít, sậm màu, có nhiều albumine, đôi khi có thể có cả đường.

2. Triệu chứng chức năng:

Bệnh nhân không ăn uống được vì nuốt đau; có tiếng nói như người ngậm hột thị (hot potato voice).

Rối loạn hô hấp thường có mặt,  lúc đầu nhẹ sau nặng. Hơi thở của bệnh nhân luôn luôn hôi thối.

3. Triệu chứng cục bộ

Bệnh nhânbị khít hàm nhiều hay ít thuỳ theo vị trí và mức độ thương tổn. Nếu ổ viêm xuất phát từ vùng dưới hàm thì sẽ bị khít hàm sớm. Nếu ổ viêm xuất phát ở : vùng giữa lưỡi, khít hàm hầu như không có.

Sàn miệng sưng phồng lên, đẩy lưỡi lên trên và ra sau. Sờ bằng hai ngón tay; Ngón tay trong miệng có cảm giác sàn miệng cứng như gỗ và ngón tay dưới hàm cho cảm giác một khôí cứng dính chặt với xương hàm dưới và sàn miệng. Không có dấu hiệu bập bềnh khi chọc dò chỉ dịch đục và máu. Không có mủ.

Cần loại ra các bệnh sau:

1) Viêm sàn miệng đơn thuần:

Sàn miệng sưng nhưng mềm.

2. Viêm tấy xương (osteophlegmon) ở mặt trong xương hàm dưới do răng: dựa vào ổ răng sâu và sàn miệng mềm

3)Viêm tấy hạch (adenophlegmom) dưới hàm hoặc dưới cằm ổ :viêm khu trú ở vùng dưới hàm, dưới lưỡi , sàn miệng mềm.

4) Viêm tấy lưỡi:

Bệnh nhân không lè lưỡi được, nói và nuốt khó.

Đè lưỡi hoặc kéo lưỡi làm bệnh nhân rất đau.



Tiến triển

Bệnh tiến triển rất nhanh trong thể tối cấp. Bệnh nhân nhân có thể tử vong sau 48 giờ.

Trong thể thông thường bệnh nhân chịu được hàng tuần và nếu không được giải quuyết, bệnh nhân sẽ tử vong trong tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc toàn thân, hoặc phế quản phế viêm, hoặc ngạt thờ do chèn ép và nhiễm độc. Nếu được điều trị tốt, bệnh nhân có rất nhiều hy vọng khỏi bệnh.



Điều trị

1. Điều trị bằng thuốc:

1) Pénixilin G: 10 - 12 triệu đơn vị (phân nửa để tiêm bắp và phân nửa để truyền tĩnh mạch) trong 1 ngày.

2) Gentamyxin 80mg/ống 2 lần tiêm bắp trong 1 ngày.

3) Klion (Métronidazole) 250mg/viên dùng, 4 - 6 viên trong 1 ngày.

Có thể thêm Corticoid: Depersolon 30mg/ống, cứ 3 giờ cho 1 ống, tiêm bắp tay hay tĩnh mạch trong vòng 24 giờ

2. Phẫu thuật

Gây tê là chính, không được gây mê

1) Có hai cách rạch da

- Rạch da theo bờ dưới của xương hàm dưới theo hình cái nỏ

- Hoặc rạch một đường ngang tờ góc hàm phải sang trái, hơi cong, cách trên xương móng 3 cm. Khi rạch sẽ có dịch lẫn máu hoặc có khi có cả khí thoát ra


2) Rạch đường trắng (ligne albialí) giữa hai cơ hàm móng vì ổ viêm thường ở trên cơ hàm móng. Dùng ngón tay hoặc kìm Kocher banh rộng ổ viêm ở trung tâm lưỡi và ở hai bên tuyến dưới hàm. Thường không có mủ chảy ra, chỉ có máu.

Có tác giả khuyên nên đặt ống dẫn lưuvào ổ viêm và tưới nhỏ bằng giọt nước o xy già6 thể tích

Dẫn lưu và để hở vết mổ. Vét mổ có thể lành lại hoặc khâu






EmoticonEmoticon