Nhược giáp trạng - Hypothyroidism
I.
Đại cương
+Bệnh nhược giáp là kết quả cuả một trạng thái lâm
sàng cũng như sinh-hóa, trong đó nguồn cung cấp kích thích tố tuyến giáp cho
các mô bị thiếu hụt và vì tác dụng cuả kích thích tố trên cơ thể thường đa dạng
nên sự thiếu hụt của nó sẽ ảnh hưởng tới nhiều chức năng.
+Về phương diện lâm sàng, nhược giáp bao gồm nhiều
trạng thái đi từ nhược tuyến giáp nhẹ cho tới hôn mê vì phù niêm (myxedema
coma) có thể gây tử vong.
II.Nguyên
nhân
+do thiếu hoạt động nguyên thủy của tuyến giáp
(primary hypothyroidism),
+do thiếu nội tiết tố kích thích tuyến giáp tuyến
yên (pituitary thyroid stimulating hormone hoặc TSH),
+do thiếu hụt nội tiết tố kích tuyến giáp dưới đồi
(hypothalamic thyrotropin-releasing hormone hay TRH).
+do nguyên nhân thông thường nhất là viêm tuyến giáp
của Hashimoto (Hashimoto's thyroiditis); bệnh này thường xảy ra cho phụ nữ trên
50 tuổi, người bệnh bị bướu cổ và có kháng thể kháng tuyến giáp (anti-thyroid
antibodies) trong huyết thanh.
+còn có thể là kết quả cuả sự điều trị bệnh cường
tuyến giáp bằng quang-tuyến hoặc giải phẫu hoặc dùng những thuốc như lithium và
amiodarone.
III.Chẩn
đoán
1.Lâm sàng
+Những triệu chứng cổ điển là mỏi mệt, tóc khô và dễ
gẫy, lên cân, táo bón, kém chịu lạnh và giảm thiểu những phản xạ gân gấp
(tendons).
+Nhược giáp nhẹ thường không có triệu-chứng gì.
2.Xét nghiệm :
+Nồng độ TSH sẽ cao
+Nồng độ T4 hoặc FTI (free thyroxine index) sẽ thấp
trong trường hợp nhược tuyến giáp nhẹ, lượng thyroxine (T4) sẽ bình thường và
TSH sẽ cao (dưới 20milliunits/L).
+Trong trường hợp nhược giáp phụ thuộc (secondary
hypothyroidism), lượng T4 hoặc FTI và TSH đều thấp hoặc ở vào mức thấp của dải
bình thường.
+Những bệnh nhân bị viêm tuyến giáp của Hashimoto
thường có kháng thể kháng tuyến giáp (anti thyroid antibodies, antimicrosomal
antibodies hoặc antithyroglobulin antibodies) cao trong huyết thanh.
IV.Điều
trị
1. L-thyroxine (levothyroxine-Synthroid, Levoxyl) là
thuốc được sử dụng để chữa trị nhược giáp.
+Thuốc chỉ cần uống ngày một lần cũng đủ để thực hiện
mức độ quân bình cuả T4 và T3 (triiodothyronine) vì T3 được biến đổi từ T4 ở
ngoại biên (peripheral conversion to T3 from T4).
+Thuốc có nhiều liều khác nhau để giúp Bác-sĩ điều
chỉnh liệu một cách chính xác.
+Mục đích của cuộc điều trị là bình thường hóa TSH
và sửa đổi các triệu-chứng.
+Những bào-chế từ tuyến giáp sấy khô (dessicated
thyroid preparation) thường cho những nồng độ hay thay đổi và có thể gây nên những
triệu-chứng không mong muốn và làm cho sự theo dõi các thử nghiệm trở thành khó
khăn.
+ Liều 1 grain (65mg) tuyến giáp trạng sấy khô tương
đương với 0.1 mg L- thyroxine; tuy nhiên cách thay đổi tốt nhất là căn cứ trên
cân nặng của bệnh nhân (xem ở dưới).
2. Liothyronine (L-T3 - Cytomel)
+ không nên sử dụng trong việc điều-trị kinh niên;
+ thường được dùng để điều-trị ngắn hạn cho những bệnh
nhân bị ung thư tuyến giáp sau khi giải phẫu để sửa soạn đo rà bằng iodine (I- scanning)
+ nó có thể hữu dụng trong cơn phù niêm hôn mê
(myxedema coma) vì nhược giáp nặng.
a,Liều dùng
+Trước khi khởi sự điều trị, tphải chú trọng đến tuổi
người bệnh và những bệnh khác mà họ mắc phải cũng như mức độ nặng nhẹ và nguyên
nhân cuả nhược giáp.
+ Khởi đầu nên cho dùng L-thyroxine từ 50 đến 75
microgram (mcg) mỗi ngày và tăng dần mỗi lần 25 mcg cho tới khi thực hiện được
tình trạng bình thường.
+ Một liều để thay thế hoàn toàn là khoảng 1.6 mcg
cho mỗi kilo mỗi ngày (tức là từ 75-100 mcg cho nữ và 100-150 mcg cho đàn ông mỗi
ngày).
+Những bệnh nhân bị nhược giáp sau khi được điều trị
bệnh Grave (Grave’ s disease) bằng quang tuyến hoặc giải phẫu sẽ cần liều nhẹ
hơn vì tuyến giáp của họ hãy còn một phần cơ năng.
+Đối với bệnh nhân không có bệnh gì khác tất cả liều
L-thyroxine có thể được dùng ngay lúc đầu; một liều thấp độ 25 mcg mỗi ngày nên
được dùng đối với những người bị nhược giáp và người già cả thường mắc phải bệnh
tim.
+Vì thời gian bán hủy trong huyết thanh (serum-half
lives) của L-thyroxine là từ 6-7 ngày, tình trạng quân bình (steady state
levels) chỉ thực hiện được 6 tuần sau khi bắt đầu điều trị.
+Nồng độ TSH sẽ bình thường hóa trong thời gian đó.
Bệnh nhân phải được cho biết là những triệu-chứng chỉ sẽ chấm dứt nhiều tháng
sau khi các thử nghiệm đã được bình thường.
b,Những phản ứng ngoài ý muốn và phản ứng nghịch
(side-effects and adverse reactions)
+Những phản ứng vì dị ứng thực sự thường không xảy
ra trừ trưòng hợp người bệnh bị biến ứng với các chất khác trong viên thuốc
thyroxine.
+Những phụ nữ bị nhược tuyến giáp và hiếm muộn phải
được báo cho biết là điều trị bằng thyroxine có thể làm cho họ dễ thụ thai.
+Đối với bệnh nhân bị bệnh tiểu đường, liều insulin
cần được gia tăng và những người dùng thuốc kháng đông máu cần phải giảm liều
thuốc đông máu đó.
+Vì L-thyroxine có thể gia tăng sự biến thể của
cortisol, những người bị nghi ngờ mắc phải nhược tuyến thượng thận (adrenal
insufficiency) cần phải được khám nghiệm kỹ càng trước khi dùng thyroxine.
+Đa số các vấn đề gây nên bởi sựï điều trị bệnh nhược
tuyến giáp là do cho thuốc quá liều.
+Cường tuyến giáp do liều thyroxine quá cao gây nên
những triệu-chứng như lo âu, nhức đầu, run lẩy bẩy và hồi hộp.
+Thử nghiệm sẽ cho thấy nồng độ TSH xuống thấp; ta
có thể tạm ngưng cho thuốc và cho bệnh nhân uống một liều nhẹ hơn từ vài ngày đến
một tuần sau.
V.Điều-trị
mạn tính (Chronic therapy)
*Chỉ dùng L-thyroxine
+Mỗi năm nồng độ TSH trong huyết thanh phải được đo
một lần.
+Thường thì nồng độ T4 hoặc FTI không cần phải theo
dõi khi đã thực hiện được sự quân bình trong việc chữa trị nhược giáp ngoại trừ trường hợp người bệnh bị
nhược giáp trung ương (central hypothyroidism).
+Vì TSH không thể được sử dụng để làm mục tiêu đối với
những bệnh nhân trên, T4 hoặc FTI cần phải được điều chỉnh sao cho chúng ở vào
giữa
khoảng bình thường.
+Đôi khi liều thyroxine cần được gia tăng đối với bệnh
nhân mắc chứng thiếu hấp thụ (malabsorption) hoặc bệnh nhân nào dùng thuốc làm
gia tăng sự biến thể cuả L-thyroxine như phenytoin (Dilantin), carbamazepine
(Tegretol) và rifampicin (Rimactane, Rifadine).
+Những thuốc khác như cholestyramine (Questran), colestipol
(Colestid) và sucralfate (Carafate) có thể cản trở sự hấp thụ của L-thyroxine;
trong trường hợp đó phải cho bệnh nhân uống thyroxine cách xa thời gian uống
các loại thuốc trên.
+Đối với những bệnh nhân mà bịnh nhược giáp không được
khả quan sau khi dùng thuốc đầy đủ và sự thiếu hấp thụ cùng như sự tương phản
thuốc đã được loại ra ta phải nghĩ tới trường hợp bệnh nhân không theo lời chỉ
dẫn cuả Bác-sĩ.
+Đôi khi những bệnh nhân dùng thuốc bào chế chủng loại
(generic preparations) thường không đạt được kết quả tốt vì bioavailability của
chúng quá thấp đối với loại thuốc có tên đặc chế (name brand drugs). Vì lý do
đó ta phải cho bệnh nhân dùng thuốc đặc chế.
+Tránh không nên dùng thuốc quá liều vì nó sẽ ảnh hưởng
tới sự biến thể của xương (gây nên bệnh sốp xương) đặc biệt với phụ nữ trong
giai đoạn hậu kinh kỳ và thuốc quá liều cũng làm cho những triệu chứng về tim
thêm nặng.
+Những bệnh nhân uống thyroxine cần phải được theo
dõi kỹ càng bằng cách đo nồng độ TSH, tránh gây nên cường tuyến giáp vì uống
thuốc quá liều.
+Thử nghiệm TSH nhậy cảm sẽ giúp đo được nồng độ TSH
thấp tới 0.05 milliunit /L.
+Nồng độ TSH phải được duy trì trong mức bình thường
giữa 0.5 và 5 milliunits/L.
+Khi bệnh nhân càng già đi, kích thích tố tuyến giáp
được sản xuất ra cũng giảm, do đó lượng thyroxine cần thiết cũng giảm.
+Với bệnh nhân trên 65 –70 tuổi, liều thuốc
thyroxine được giảm từ 10 đến 15%.
1 nhận xét
EmoticonEmoticon